Thứ Sáu tuần 28 thường niên. – Thánh Têrêxa Giêsu, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
“Mọi sợi tóc trên đều các con cũng đã được đếm cả rồi”.
* Chào đời năm 1515 tại Avila, Tây Ban Nha, Têrêxa là một nhà cải tổ dòng Cát Minh, một con người vừa chiêm niệm vừa hoạt động. Là người chiêm niệm, chị đã ghi lại kinh nghiệm thần bí của mình trong “chuyến đi lên Thiên Chúa”. Các tập sách của chị đã khiến chị thành bậc thầy về đường thiêng liêng.
Là người sáng lập, chị đã rảo khắp nước Tây Ban Nha để thiết lập các đan viện. Tâm hồn chị được thống nhất nhờ nỗi khao khát được sống “một mình với Đấng Độc Nhất”. Chị qua đời ở Avila năm 1582.
Lời Chúa: Lc 12, 1-7
Khi ấy, có nhiều đám đông dân chúng đứng chung quanh, đến nỗi chen đạp lẫn nhau, nên Chúa Giêsu bắt đầu dạy các môn đệ trước tiên rằng: “Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái, nghĩa là sự giả hình.
Không có gì che đậy mà không bị tiết lộ ra, và không có gì giấu kín mà chẳng biết được. Vì vậy, những điều các con nói trong nơi tối tăm, sẽ được nói ra nơi sáng sủa, và điều các con nói rỉ tai trong buồng kín, sẽ được rao giảng trên mái nhà. “Thầy bảo các con là những bạn hữu của Thầy rằng: Các con đừng sợ chi những kẻ giết được thân xác, rồi sau đó không thể làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho các con biết phải sợ ai: Hãy sợ Ðấng, sau khi đã giết chết, còn có quyền ném vào địa ngục. Phải, Thầy bảo các con hãy sợ Ðấng ấy.
“Chớ thì năm con chim sẻ không bán được hai đồng tiền sao? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, mọi sợi tóc trên đầu các con cũng đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn trọng hơn nhiều con chim sẻ”.
Suy niệm 1: Môn đệ và bạn hữu
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trước một đám đông kinh khủng chen lấn để đến gần Ngài,
Thầy Giêsu vẫn muốn ngỏ lời trước hết với các môn đệ dấu yêu.
Lần duy nhất trong Tin Mừng Nhất lãm, Thầy gọi họ là bạn hữu (c. 4).
Thầy dặn dò họ cảnh giác kẻo lây nhiễm men của người Pharisêu,
đó là thái độ đạo đức giả (c. 1).
Thái độ này luôn bao hàm một che giấu nào đó về sự thật,
khiến người nhìn bên ngoài dễ bị đánh lừa bởi những mặt nạ đạo đức.
Việc che giấu khéo léo này có thể xuôi chèo mát mái một thời gian.
Nhưng đối với Thầy Giêsu, nó không thể kéo dài mãi.
Sớm muộn gì sự thật cũng sẽ lộ diện, như chiếc kim trong bọc thò ra.
“Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra,
không có gì bí mật mà sẽ không bị người ta biết” (c. 2).
Nếu con người mãi mãi không biết, thì Thiên Chúa vẫn biết.
Chúng ta có thể tránh được máy kiểm tra nói dối của người đời,
nhưng không tránh được cái nhìn xuyên thấu tâm can của Thiên Chúa.
“Tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày;
điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà” (c. 3).
Như thế điều tưởng như không thể lọt ra ngoài, điều kín như bưng,
vẫn có thể bị đưa ra ánh sáng,
mặt nạ bị rơi xuống, và bản chất thật của con người được vén mở.
Đây là một lời đe dọa, hay đúng hơn, một lời khuyên hãy sống thực lòng.
Thầy Giêsu còn khuyên các môn đệ đừng sợ.
Chuyện bị bách hại và sát hại là chuyện có thể xảy ra.
Chuyện ấy sẽ xảy ra với Thầy và với các môn đệ nữa.
Điều quan trọng là đừng sợ kẻ sát nhân lấy đi mạng sống thân xác (c. 4).
Dù mạng sống thân xác thật đáng quý, đáng trọng,
nhưng con người không phải chỉ có thân xác hay chỉ là thân xác.
Thầy dạy cho các môn đệ biết phải sợ ai (c. 5).
Phải sợ chính Thiên Chúa, Đấng có quyền ném anh em vào hỏa ngục.
Các vị tử đạo đều tin, hiểu và sống các câu Tin Mừng này.
Họ đã chịu bao đớn đau nhục hình và cái chết thân xác,
nhưng họ đã tránh được hỏa ngục, và được đón vào lòng Thiên Chúa.
Kitô hữu phải đối diện với những thách đố cam go.
Lúc chịu bách hại lại tưởng mình bị Thiên Chúa bỏ rơi, ruồng rẫy.
Chim sẻ là thức ăn rẻ tiền cho người nghèo,
tiền lương một ngày mua được những 40 con chim sẻ.
Nếu Thiên Chúa không quên một con sẻ nào,
thì Ngài lại càng không thể quên được những người bạn của Con Ngài.
Nếu từng sợi tóc của chúng ta đã được Thiên Chúa biết,
thì chuyện mạng sống của ta hẳn được Ngài quan tâm hơn nhiều.
Hãy để lòng mình bình an vì sống không gian dối, nên không sợ bị lộ.
Hãy để lòng mình bình an vì cái chết chẳng phải là dấu chấm hết.
Hãy hạnh phúc vì biết mình là môn đệ và là bạn hữu của Thầy Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được ơn khôn ngoan
để con biết sợ điều phải sợ.
Cho con đừng sợ những đe dọa đến thân xác, tiếng tăm,
nhưng biết sợ mất đi vĩnh viễn toàn bộ con người mình.
Cho con đừng sợ những kẻ làm hại con ở đời này,
nhưng biết sợ phải xa Đấng yêu con và muốn con hạnh phúc mãi.
Xin giải phóng con khỏi những nỗi sợ đã ăn sâu vào cuộc sống,
những nỗi sợ ngấm ngầm mà chính con không dám thú nhận,
những nỗi sợ làm con chẳng bao giờ được tự do và an vui.
Nhờ đó con dám sống thật sự là mình,
tươi tắn và hồn nhiên, nhẹ nhàng và không lo lắng.
Xin dạy con ngắm những bông hoa dại vệ đường
để thấy chúng được điểm trang lộng lẫy,
và ngắm chính mình mỗi ngày,
để thấy vẻ đẹp nơi mình như một quà tặng của tình yêu.
Xin dạy con ngắm đàn chim sẻ ríu rít buổi sáng,
để biết mình chẳng nên quá lo về chuyện cơm áo gạo tiền,
nhưng nên phó thác như em thơ ngồi trong lòng mẹ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đặt đời mình trong tay Cha.
Xin cho con cũng đặt đời con trong tay Chúa.
Suy niệm 2: Sống công chính
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sống đạo là sống mối tương quan với Thiên Chúa. Mối tương quan này được người đời kính trọng. Vì thế sống đạo dễ biến chất. Trở thành phương tiện gây uy tín. Trục lợi. Thành giả hình. Sống hình thức trước mặt người đời. Quên mất điều cốt lõi là sống trước mặt Thiên Chúa.
Người Pha-ri-sêu sống kiểu này. Chính vì thế Chúa Giê-su khuyên dạy các tông đồ: “Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả”. Phải tránh xa. Vì giả dối trước sau gì cũng bại lộ trước mặt người đời. Nhưng còn hơn thế nữa. Giả dối không che được mắt Chúa. Chúa thấu biết mọi sự. Vì thế phải luôn sống ngay thẳng. Sống công chính.
Sống công chính có thể bị thiệt thòi trước mặt người đời. Không được lợi lộc gì. Có khi còn bị bắt bớ, hành hạ, và bị giết chết nữa. Giả hình là hèn nhát. Sợ người đời. Công chính là không sợ người đời. Chỉ sợ Thiên Chúa. Sống đúng mối tương quan với Thiên Chúa. Người giả hình chỉ được đời này mà mất đời sau. Người công chính có thể mất đời này. Nhưng được đời sau. Nhưng trên hết người công chính được Thiên Chúa yêu thương. Luôn quan phòng chăm sóc. Được tình yêu của Thiên Chúa. Được chính Thiên Chúa. Đó là hạnh phúc. “Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa…Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”.
Tổ phụ Áp-ra-ham được kể là công chính. Vì ngài từ bỏ hết những lợi lộc đời này. Chỉ tin vào lời hứa. Nên đi theo Chúa. Làm theo những gì Chúa chỉ dạy. Kể cả từ bỏ đứa con một yêu quí. Thực ra chẳng ai tự mình nên công chính. Chỉ Thiên Chúa mới làm cho ta nên công chính. Nên “lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính”. Và người công chính sống bằng đức tin(năm lẻ).
Để giúp ta dễ dàng sống công chính, Thiên Chúa đã gửi Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Người xuống thế. Ai tin vào Chúa Giê-su sẽ nên công chính. Vì “trong Chúa Ki-tô, Thiên Chúa đã chọn chúng ta… Trong Chúa Ki-tô, cả anh em nữa, anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em; vẫn trong Chúa Ki-tô một khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần…là bảo chững phần gia nghiệp của chúng ta” (năm chẵn).
Tạ ơn Chúa. Chúng ta vốn tội lỗi. Nhưng Chúa làm cho ta nên công chính. Tha tội lỗi chúng ta. Hãy vững tin vào Chúa. Ta sẽ được cứu chuộc.
Suy niệm 3: Các Con Ðừng Sợ
Thánh Justinô là một triết gia nổi tiếng của Kitô giáo vào thế kỷ thứ 2; ngài đã bị bắt giam tại Rôma cùng với một số Kitô hữu khác, vì tội tuyên truyền tôn giáo trong trường học do ngài điều khiển. Ra trước tòa, khi được hỏi về hành động của mình, thánh nhân dõng dạc tuyên bố:
– Suốt đời tôi, tôi đã đi tìm kiếm chân lý; tôi đã nghiên cứu sâu xa các triết lý Ðông Phương, Hy Lạp và Rôma; thế nhưng cuối cùng tôi đã tìm được giáo thuyết chân thật.
Quan tòa liền hỏi giáo thuyết chân thật đó là gì? Thánh nhân giải thích:
– Thưa là giáo thuyết của Chúa Giêsu Nazaret, giáo thuyết này nhằm giải phóng chúng ta khỏi các ngẫu tượng và dạy chúng ta thờ phượng một Thiên Chúa độc nhất, hằng sống và chân thật, là Ðấng tạo thành trời đất, là Ðấng cứu rỗi nhân loại.
Quan tòa lại hỏi: – Vậy ông là một Kitô hữu ư?
Thánh nhân liền tuyên xưng:
– Phải, tôi là một Kitô hữu và tôi lấy làm vinh dự được làm Kitô hữu cùng với các bạn tôi đây.
Quan tòa ra lệnh cho thánh nhân và các bạn của ngài phải tế thần, thánh nhân trả lời một cách cương quyết:
– Chúng tôi không tôn thờ ngẫu tượng, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng tôi là những người vô thần. Chúng tôi thờ lạy một Thiên Chúa thiêng liêng, Cha của Chúa Giêsu. Một người có đầu óc lành mạnh không thể từ bỏ tôn giáo chân thật để chạy theo một tôn giáo giả.
Thấy không thể thuyết phục được thánh nhân bỏ đạo, quan tòa ra lệnh đánh đòn rồi xử trảm thánh nhân và các bạn.
Ðứng trước cái chết, ai cũng run sợ. Chúa Giêsu đã không thoát khỏi tâm trạng ấy: Ngài run sợ đến toát mồ hôi máu. Vậy đâu là sức mạnh giúp Chúa Giêsu thắng vượt sự sợ hãi ấy? Thưa, chính là sự kết hiệp với Chúa Cha. Niềm tín thác vào sự hiện diện và tình yêu của Chúa Cha đã giúp Chúa Giêsu thắng vượt mọi thử thách và yếu hèn trong thân phận làm người.
Ðó cũng là bí quyết của tất cả các thánh tử đạo. Sách Công vụ Tông Ðồ kể lại đầy đủ chi tiết cái chết của vị tử đạo tiên khởi là thánh Stêphanô. Thánh nhân cũng phải trải qua những giây phút kinh hãi như chính Chúa Giêsu; nhưng sách Công vụ Tông đồ mô tả thái độ của ngài như sau: “Ngài được đầy Thánh Thần, đăm đăm nhìn trời cao thấy vinh quang của Thiên Chúa và thấy Chúa Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa”. Chỉ bằng một ánh mắt luôn hướng về trời cao như thế, con người mới có thể lướt qua thử thách và sợ hãi. Thánh Justinô đã có được sự bình thản trước cái chết, bởi vì ngài luôn tin tưởng vào Thiên Chúa hằng sống và chân thật.
Nhìn lại cung cách của một số vị tử đạo, chúng ta có được sức mạnh của Lời Chúa trong đời sống con người. Sứ điệp Tin Mừng hôm nay tập trung vào hai chữ: “Ðừng sợ” được Chúa Giêsu lặp lại nhiều lần. Ðây chính là một mệnh lệnh của Chúa Giêsu chạy xuyên suốt toàn bộ Tin Mừng. Trong biến cố Truyền tin, thiên sứ đã nói với Ðức Maria: “Ðừng sợ”. Khi Chúa Giêsu sinh ra, các thiên sứ đã loan báo tin vui bằng lời trấn an các mục đồng: “Ðừng sợ”. Ðây là công thức sẽ được Chúa Giêsu lặp lại nhiều lần với các môn đệ, và cao điểm là lúc Ngài tuyên bố: “Các con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian”.
Khi được bầu làm Giáo Hoàng, trong diễn văn đầu tiên tại quảng trường thánh Phêrô, Ðức Gioan Phaolô II đã dõng dạc tuyên bố: “Ðừng sợ, hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô”. Thật thế, khi con người mở rộng cửa cho Chúa Kitô, khi con người để Chúa Kitô sinh động trong tâm hồn, khi con người chỉ sống bằng sự sống của Chúa Kitô, thì lúc đó con người sẽ lướt thắng được mọi sợ hãi, và chỉ lúc đó, con người mới có thể lên tiếng công bố Lời Chúa cho mọi người.
Nguyện xin sức sống của Chúa Kitô tràn ngập tâm hồn chúng ta, để cả cuộc đời chúng ta trở thành lời ca tụng Chúa trước mặt mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)