THÁNH PHÊ-RÔ VÀ THÁNH PHAO-LÔ
Hai con người sinh cùng thời, nhưng hoàn cảnh và tính cách khác nhau vô cùng. Phê-rô một ngư phủ của miền Ga-li-lê-a, là người Do thái sinh trưởng trong gia đình đạo đức truyền thống. Ngài có vợ con và nghề nghiệp. Phao-lô vị Tông đồ dân ngoại, trước khi đón nhận đức tin là một con người hăng say đi bắt những người theo đạo, giao nộp cho triều đình. Sau biến cố ngã ngựa trên đường đi Đamas, đã trở lại và nên Tông đồ của Chúa.
Phê-rô giọt lệ ăn năn
Anh hùng cũng có lúc sa chân, đọc lại các trình thuật của tin mừng, hình ảnh của Thánh Phê-rô rất nổi bật, trong những tranh luận và trả lời nhiều câu hỏi của Chúa Giê-su đặt ra. Một lần khi đã giải tán đám đông, lúc chỉ còn lại nhóm 12, Chúa Giê-su hỏi phần các Tông đồ, bảo Ngài là ai, và Phê-rô, người anh cả của các Tông đồ đã thưa: “ Thầy là Đức ki-tô, con Thiên Chúa hằng sống”(Mc 16,16). Lúc giảng về Bánh hằng sống, nhiều người bỏ đi, trong đó có các môn đệ. Phê-rô cũng thay mặt cho anh em để xác quyết rằng: Bỏ Thầy, con biết theo ai…Và rất nhiều lần khác nữa. Thế nhưng, có lẻ không lần nào hằn lên trong ký ức của Thánh nhân, đầy những kỷ niệm khó phai bằng lần khóc cho sự sa ngã của mình. Con người bộc trực và cương nghị, thẳng thắn và không chút quanh co, thế mà trong hồi thương khó, lại dễ dàng chối bỏ là mình chưa một lần gặp gỡ Chúa Giê-su. Thật không thể tin được, một con người sẵn sàng liều mạng sống mình vì Chúa, lại có những phút giây nông nỗi đến đáng thương vậy. Bài học xương máu cho Phê-rô, suốt trong đêm hôm ấy, Ngài đã khóc, khóc thật nhiều, khóc đứng, khóc ngồi, khóc nằm, đến nỗi nước mắt làm mòn đôi gò má. Chúa biết con yêu mến Chúa, quả thực Thánh Phê-rô đã dùng máu và nước mắt để tô đậm hai chữ tình yêu mà Ngài đã thân thưa cùng Chúa: “ Lạy Chúa, Chúa biết hết mọi sự, Chúa biết con yêu mến Chúa”(Ga 21,17).
Phao-lô chẳng kém thua gì
Cú ngã ngựa nhớ đời, và cũng là khúc ngoặc, lối rẽ định mệnh của Thánh nhân: “Vì tình yêu của Đức Ki-tô thúc bách chúng tôi”(2Co 5.15). Tình yêu đến nỗi đã làm cho Phao-lô “ ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh”, vào tù, ra tội, đòn vọt đủ cả. Tất cả vì lòng nhiệt thành và yêu mến Giáo hội của Chúa Giê-su. Như trong thư thứ hai gởi Ti-mô-thê-ô Ngài viết: “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo….Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay chiều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” ( 2 Tm 4,6-8). Các lá thư ra đời trong lao tù, gọi là: “Ngục trung thư”, cũng quá đủ để minh chứng cho lòng yêu mến Đức Giê-su của Thánh Phao-lô lớn lao biết là dường nào. Từ một con người ghét đạo, Ngài đã trở nên vị Tông đồ dân ngoại có một không hai, là rường cột của Giáo hội hoàn cầu.
Hai Thánh nhân: “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”. Hai tấm gương sáng chói của đức tin kiên vững, đức mến sắt son và đức cậy tuyệt vời, đó chính là kim chỉ nam cho hậu thế dõi theo. Mừng kính hai Ngai, Giáo hội mời gọi mỗi người hãy can đảm, trung kiên làm chứng cho Tin mừng của Chúa Ki-tô khắp cõi trần gian này, vì chưng: “ Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”(1Cr 9,16).
Lm Giacobe Tạ Chúc